Ngữ Văn Lớp 9: Viết bài văn giới thiệu về tác phẩm, tác giải, nhân vật bé Thu,anh Sáu ( không copy mạng )

Ngữ Văn Lớp 9: Viết bài văn giới thiệu về tác phẩm, tác giải, nhân vật bé Thu,anh Sáu ( không copy mạng )

Ngữ Văn Lớp 9: Viết bài văn giới thiệu về tác phẩm, tác giải, nhân vật bé Thu,anh Sáu ( không copy mạng )

0 bình luận về “Ngữ Văn Lớp 9: Viết bài văn giới thiệu về tác phẩm, tác giải, nhân vật bé Thu,anh Sáu ( không copy mạng )”

  1. Sinh ra và lớn lên ở mảnh đất Nam Bộ, Nguyễn Quang Sáng luôn dành những những trang viết mộc mạc, bình dị cùng giọng văn đậm chất Nam Bộ về con người và cuộc sống ở nơi đây. Mỗi trang viết của ông đều để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc và truyện ngắn “Chiếc lược ngà” là một trong số những tác phẩm như thế. Ra đời trong những năm tháng cuộc kháng chiến chống Mĩ diễn ra ác liệt, tác phẩm đã thể hiện thành công tình cảm cha con sâu nặng trong hoàn cảnh chiến tranh éo le. Và qua nhân vật bé Thu sẽ giúp chúng ta hiểu thêm về tình cảm thiêng liêng, cao quý ấy.
    Cũng như bao người khác, Thu là một đứa bé giàu lòng yêu thương cha và bởi vậy, trong cô gái nhỏ bé ấy vẫn luôn hiện hữu khao khát đến ngày được gặp cha, được sà vào vòng tay cha vỗ về, che chở. Và rồi, ngày tháng ấy cũng đã tới sau tám năm dài đằng đẵng xa cách. Những tưởng, Thu sẽ vui lắm, sẽ hạnh phúc lắm mà ôm lấy cha, nhưng không, ngày gặp cha, Thu có một thái độ rất khác thường, trước sự ngỡ ngàng của mọi người. Ông Sáu xuống bến xuồng, ông dồn hết bao nỗi nhớ thương con vào tiếng gọi thiêng liêng “Thu! Con!” nhưng trước nỗi niềm xúc động ấy của ông Sáu, Thu từ sự ngạc nhiên này sang đến ngạc nhiên khác, “tròn mắt nhìn”, cô bé thấy “lạ quá, chớp chớp mắt” như muốn hỏi là ai rồi vội chạy đi tìm sự giúp đỡ từ mẹ. Trong suốt ba ngày được nghỉ phép ở nhà, ông Sáu luôn cố gắng tìm mọi cách để bù đắp cho con với mong muốn sẽ làm con thay đổi, kiên nhẫn chờ đợi tình cảm từ con. Nhưng đáp lại tình cảm ấy của ông Sáu chỉ có sự lạnh nhạt của Thu, ông Sáu “càng vỗ về con bé càng đẩy ra” và thậm chí cô bé còn tỏ ra ngang ngạnh và ương bướng. Sự ương bướng ấy của Thu thể hiện rõ nét ở việc cô bé nhất quyết không chịu gọi một tiếng ba, lúc cần thiết phải nói thì lại lựa chọn cách nói trống không với ông Sáu. Thậm chí, ngay cả trong những tình huống cấp bách như phải chắt nước của một nồi cơm to thì cô bé vẫn cố loay hoay, tự tìm cách làm chứ nhất định không chịu nhờ tới sự giúp đỡ của ông Sáu. Bé Thu cố từ chối mọi sự yêu thương, vỗ về mà ông Sáu dành cho mình, khi ông Sáu gắp trứng cá vào chén cho bé Thu thì cô bé “liền lấy đũa xoi vào chén, để đó rồi bất thần hất cái trứng ra”, làm cho cơm văng hết cả ra mâm. Và đỉnh điểm, khi bị ông Sáu đánh, bé Thu không phản ứng gì mà bỏ về nhà bà ngoại. Có thể thấy, bé Thu là một cô bé rất ngang ngạnh, bướng bỉnh nhưng sự bướng bỉnh ấy của cô bé không hề đáng trách. Bởi Thu không nhận ba không phải vì không yêu ba mà bởi trong suốt những năm tháng chiến tranh, cô chỉ nhìn ba qua tấm ảnh để rồi đến ngày gặp gỡ, vết thẹo trên mặt của ông Sáu khiến cho ông khác lạ so với trong ảnh, điều đó khiến bé Thu không nhận ba. Những hành động và phản ứng của bé Thu hoàn toàn là tất yếu, bởi cô bé còn quá nhỏ để hiểu được sự dữ dội và tàn ác mà cuộc chiến tranh để lại.
    Nhưng rồi, mọi chuyện đã thực sự thay đổi khi bé Thu được bà ngoại kể cho câu chuyện về vết thẹo trên gương mặt của ba và khi cô bé hiểu ra mọi thứ cũng chính là lúc ông Sáu phải lên đường nhận nhiệm vụ. Hoàn cảnh gặp gỡ ấy đã khiến cho tình cảm cha con có dịp được thể hiện rõ nét và xúc động hơn bao giờ hết. Khác với một bé Thu ngang ngạnh, cau có, bướng bỉnh trong ba ngày trước, hôm nay khuôn mặt bé Thu “sầm lại buồn rầu” và “nhìn với vẻ nghĩ ngợi sâu xa”. Và khi cô bé bắt gặp ánh mắt buồn rầu của ông Sáu thì “đôi mắt mênh mông của con bé bỗng xôn xao”. Có lẽ, giờ đây, bao nhiêu niềm yêu thương cha của cô bé gửi cả vào trong ánh mắt và cô cất tiếng gọi ba – một tiếng kêu đến xé lòng khi ông Sáu khẽ cất lời từ biệt. Không dừng lại ở đó, bé Thu còn chạy tới ôm thật chặt lấy ba, hôn ba và hôn lên cả vết thẹo. Nụ hôn ấy, nụ hôn của tình yêu vô bờ bến và còn là nụ hôn của nỗi nhớ không nguôi. Hơn bao giờ hết, chắc hẳn bé Thu muốn giây phút này sẽ còn lại mãi mãi, để cô có thể được ở cạnh ba, được ba ôm chặt trong vòng tay của mình. Rồi trong phút giây ấy, bô bé cất lời giữ ba ở lại với mình “Ba! Không cho ba đi nữa! Ba ở nhà với con!” Một ước mơ, một lời nói rất đỗi trẻ con nhưng lại chất chứa trong đấy tình cảm sâu đậm của bé Thu dành cho ba, đó là tình cảm thiêng liêng, cao quý. Cô bé chia tay ba với hi vọng ba sẽ tặng cho mình một chiếc lược ngà, để cô luôn cảm thấy ấm áp như có ba luôn bên mình. Như vậy, trong khoảnh khắc chia li, mọi khoảng cách đã bị xóa bỏ, chỉ còn lại ở đó tình cảm sâu đậm mà bé Thu dành cho ba.
    Như vậy, truyện ngắn “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng đã miêu tả thành công những biến đổi tinh tế trong tình cảm của bé Thu, qua đó cho chúng ta thấy bé Thu là một cô bé ngang ngạnh, bướng bỉnh nhưng yêu thương ba đến vô ngần. Đồng thời, qua đó cũng cho thấy tình cảm cha con sâu đậm trong cuộc chiến tranh cam go, ác liệt của dân tộc.

    Trả lời
  2. Nhân vật bé Thu.
    Nguyễn Quang Sáng là nhà văn có rất nhiều những tác phẩm hay viết về những người dân Nam Bộ. Bởi ông vừa là một nhà văn nhưng cũng là một người chiến sĩ nên ông hiểu rõ những góc sâu trong tình cảm của những con người chiến sĩ luôn gần gũi bên cạnh mình. Những tác phẩm của ông mang lại rất nhiều dấu ấn trong lòng người đọc như “Con chim vàng”, “Người quê hương”, “Chiếc lược ngà”,… Trong số đó, tác phẩm mà em thích nhất chính là Chiếc lược ngà (1966).
    Câu chuyện đã làm cho chúng ta xúc động về tình cha con thắm thiết của bé Thu và anh Sáu trong hoàn cảnh chiến tranh ác liệt. Bé Thu là một cô bé ương ngạnh và bướng bỉnh. Từ nhỏ, bé Thu đã không được gặp anh Sáu – cha của mình mà chỉ biết cha qua tấm ảnh cưới của cha mẹ. Bởi thế, trong lòng của cô bé, anh Sáu là một chiến sĩ cứu nước đẹp trai và thật yêu thương nó.
    Mãi cho tới khi bé Thu được bảy tuổi, anh mới có thời gian để về thăm nhà vài ngày. Những tưởng bé Thu sẽ nồng nhiệt đón chờ anh, thế nhưng, bé lại xa lánh người cha của mình và nhất quyết không chịu gọi một tiếng “Ba” nào cả. Lần đầu tiên gặp anh, bé chỉ “tròn mắt nhìn”,”ngơ ngác, lạ lùng” sau đó là “vụt chạy và kêu thét lên”. Trong lòng anh Sáu luôn khao khát có thể có được một tiếng gọi của con gái, thế nhưng, bé Thu nhất quyết không chịu gọi anh một tiếng nào.
    Thậm chí, bé còn có những hành động chống đối lại anh. Khi mẹ bảo gọi cha ăn cơm, bé chỉ nói trống không những câu như ” Thì má cứ kêu đi”,”Vô ăn cơm”, “Cơm chín rồi”. Ngay cả lúc lâm vào tình huống khó xử cần nhờ giúp đỡ của anh Sáu mà bé Thu cũng nhất quyết không chịu gọi anh một tiếng ba mà chỉ hì hục một mình làm công việc. Những khi anh Sáu ân cần chăm sóc, bé cũng không chấp nhận. Bé hất miếng trứng cá anh Sáu gắp cho mình.
    Và trong những phút nóng giận, anh đã đánh vào mông bé “Sao mày cứng đầu quá vậy, hả?”. Có lẽ tới đây, ai cũng nghĩ rằng, bé sẽ khóc to hay giẫy lên nhưng tình huống không hề như vậy. Bé Thu chỉ im lặng rồi sau đó bé đi sang bên nhà bà ngoại,” méc với ngoại và khóc ở bên đó”. Ở tình huống này, có rất nhiều người sẽ trách mắng bé Thu. Thế nhưng, tới đây, chúng ta mới hiểu được lí do tại sao bé Thu lại không chịu gọi anh Sáu một tiếng “Ba”.
    Tất cả chỉ bởi vết sẹo ở trên mặt anh. Đây có lẽ là kết quả mà không ai có thể ngờ được. Thì ra trong bức ảnh của anh khi đưa cho bé Thu xem là khi anh chưa đi kháng chiến nên không hề có vết sẹo nào ở trên mặt. Trong khi giờ đây, khi anh đứng trước mặt của bé thì mặt của anh lại có một vết sẹo dài.
    Mỗi lần xúc động, vết sẹo ấy lại giật giật trông rất đáng sợ. Chính bởi lí do như vậy mà bé Thu nhất quyết không nhận người cha của mình bởi trong trí óc non nớt của bé, người cha không hề có vết sẹo đáng sợ ấy. Nghe được lời giải thích của bà, lúc này, bé mới có thể hiểu được những điều đó và cũng hiểu thêm về người cha của mình.
    Tới lúc chia tay, anh Sáu chỉ khẽ nói với con:” Thôi! Ba đi nghe con!” Cứ nghĩ rằng cho tới lúc chia tay, anh cũng không thể nghe được tiếng gọi ba, thế nhưng một điều không ngờ đã xảy tới. Thu bỗng thét lên ” Ba!…Ba!” Tiếng kêu như gào xé cả bầu không gian.
    Bé vội chạy tới, ôm chầm lấy người cha của mình mà hôn lên khắp khuôn mặt của người cha, hôn cả lên vết sẹo mà bé vẫn thường sợ ấy. Bé khóc nấc lên, đòi giữ lấy người cha ở cạnh mình, không cho ba đi vì thời gian nhận ra nhau của họ quá ngắn ngủi. Không còn cách nào, bé đành xin ba làm cho bé một chiếc lược. Đây cũng chính là yêu cầu duy nhất của bé.
    Đây cũng là lần cuối cùng của bé Thu được gặp người cha của mình. Qua đây, chúng ta thấy được tình cảm của cả hai cha con. Bằng giọng văn nhẹ nhàng, tác phẩm cũng kín đáo lên án chiến tranh, bởi chiến tranh đã tàn phá và để lại vết thương trên cơ thể anh Sáu và cũng làm cho cha con anh không thể gặp được nhau mới gây nên những tình huống như lúc này. Và hình ảnh của bé Thu mãi mãi là hình ảnh đẹp trong tâm trí của mỗi chúng ta.
    Nhân vật ông Sáu.
    Nguyễn Quang Sáng là một nhà văn Nam Bộ. Ông rất am hiểu và gắn bó với mảnh đất Thành đồng cùng những người con gái trung kiên trên mảnh đất ấy. Truyện của ông hầu như chỉ viết về cuộc sống con người Nam Bộ trong chiến tranh và sau hòa bình. Sáng tác năm 1966, trong thời kì cuộc kháng chiến chống Mỹ đang diễn ra quyết liệt, “Chiếc lược ngà” ngợi ca tình cha con, tình đồng chí của những người cán bộ Cách mạng – cũng là tình người trong cảnh ngộ éo le của chiến tranh. Cũng như bé Thu, nhân vật ông Sáu trong truyện đã để lại cho người đọc rất nhiều ấn tượng.
    Câu chuyện xoay quanh cuộc sống gia đình của ông Sáu, một cán bộ kháng chiến. Ông Sáu xa nhà đi kháng chiến, mãi đến khi con gái ông lên 8 tuổi, ông mới có dịp về thăm nhà, thăm con. Bé Thu không chịu nhận cha vì vết thẹo trên mặt làm ba em không giống với người chụp chung với má trong bức ảnh mà em đã biết.Thu đối xử với ba như người xa lạ, đến lúc hiểu ra, tình cha con thức dậy mãnh liệt trong em thì cũng là lúc ông Sáu phải lên đường. Ở khu căn cứ, bao nỗi thương nhớ con, ông dồn vào việc làm cho con cây lược. Ông hi sinh trong một trận càn của Mỹ ngụy. Trước lúc nhắm mắt, ông còn kịp trao cây lược cho một người bạn. Tình đồng đội, tình cha con của ông Sáu được miêu tả thật cảm động,làm sáng ngời vẻ đẹp của người lính Cách mạng, của người cha yêu con.
    Vẻ đẹp của nhân vật ông Sáu mà người đọc cảm nhận trước hết là vẻ đẹp của người lính Cách mạng. Kháng chiến bùng nổ, ông Sáu từ giã những gì thân thương nhất: con thơ, vợ trẻ lên đường làm Cách mạng. Khi ông ra đi, bé Thu, con gái đầu lòng, cũng là đứa con gái duy nhất của ông chưa đầy một tuổi.Vậy mà, đằng đẵng suốt những năm kháng chiến, ông không một lần về thăm con,bởi với những người lính “đâu có giặc là ta phải đi”. Họ đã gác tình riêng, vì nghĩa lớn để rồi ngày kháng chiến thắng lợi, ông được nghỉ phép về thăm nhà, thăm con. Trong lợi to lớn của dân tộc, có phần xương máu mà ông Sáu đóng góp.
    Cảm động nhất, để lại ấn tượng nhiều nhất cho người đọc trong hình ảnh người cha chiến sĩ ấy chính là tình phụ tử thiêng liêng, sâu đậm –tình yêu thương mà ông Sáu dành cho đứa con gái. Được về thăm nhà sau bao năm ở chiến khu, khao khát đốt lòng ông Sáu là được gặp con, được nghe con gọi tiếng ba, được sống trong tình cha con mà bấy lâu nay ông chưa được sống. Vì thế, về gần tới nhà, thoáng thấy bóng con,không chờ xuồng cập bến, ông nhón chân nhảy thót lên xô chiếc xuồng tạt ra. Ông bước vội vàng những bước dài. Cái tiếng gọi ông phải kìm nén bao lâu nay bỗng bật ra thật cảm động, làm người đọc thấy nghẹn ngào: -“Thu! Con”.
    Ngược lại với điều ông mong muốn, đứa con gái ngơ ngác,hốt hoảng rồi vụt chạy và kêu thét lên khiến người cha đau khổ, hai tay buông thõng như bị gãy. Rồi suốt ba ngày nghỉ phép , ông không dám đi đâu xa, chỉ quanh quẩn gần con. Song, ông càng xích lại gần nó càng lùi xa; ông càng khao khát được nghe tiếng “ba” từ lòng con, nó càng không gọi… Bị con cự tuyệt,ông Sáu đau khổ không khóc được phải cười.
    Trước giờ phút lên đường chia tay con, ông muốn ôm con,nhưng lại sợ con không nhận đành chỉ nhìn. Song chính trong lúc này, tình cảm dành cho người cha ở bé Thu òa ra mãnh liệt. Nó cất tiếng gọi “ba”, ông xúc động đến phát khóc và “không muốn cho con thấy mình khóc, anh Sáu một tay ôm con, một tay rút khăn lau nước mắt, rồi hôn lên mái tóc của con”.Người chiến sĩ ấy nước mắt đã khô cạn nơi chiến trường, giờ đây là những giọt nước mắt hiếm hoi – nước mắt của niềm hạnh phúc và tình cha con. Thương con,chia tay con, ông Sáu hứa sẽ mua cho con cây lược.
    Tình cảm của ông Sáu đối với con còn được nhà văn thể hiện rất cảm động khi ông ở khu căn cứ. Nỗi day dứt, ân hận ám ảnh ông suốt nhiều ngày là việc ông đã đánh con khi nóng giận. Rồi lời dặn của con: “Ba về ba mua cho con một cây lược nghe ba” đã thôi thúc ông nghĩ đến việc làm cho con một cây lược bằng ngà. Làm cây lược trở thành bổn phận của người cha, thành tiếng gọi cầu khẩn của tình yêu thương con. Kiếm được khúc ngà voi, ông Sáu hớn hở như một đứa trẻ được quà và ông dành hết tâm trí, công sức vào việc làm ra cây lược. Hãy nghe đồng đội của ông kể lại: “Những lúc rỗi, anh cưa từng chiếc răng lược, thận trọng, tỉ mỉ và cố công như người thợ bạc”. Phải chăng, bao nhiêu tình yêu thương con ông dồn vào việc làm cây lược ấy? Rồi ông gò lưng tỉ mẩn, khắc từng nét chữ lên sống lưng lược: “Yêu nhớ tặng Thu con của ba”.
    Cây lược ấy, dòng chữ ấy là tình yêu, là nỗi nhớ thương, sự ân hận của ông đối với đứa con gái. Những lúc rỗi cũng như đêm đêm nhớ con ông thường lấy cây lược ra ngắm nghía, rồi mài lên tóc cho cây lược thêm bóng, thêm mượt. Làm như vậy, có lẽ ông không muốn con ông bị đau khi chải lược lên tóc. Yêu con, ông Sáu yêu từng sợi tóc của con. Người đọc cảm động trước tấm lòng của người cha ấy. Lòng yêu con đã biến người chiến sĩ thành một nghệ nhân – nghệ nhân chỉ sáng tạo ra một tác phẩm duy nhất trên đời– chiếc lược ngà. Cho nên, cây lược ngà đã kết tinh trong nó tình phụ tử mộc mạc, sâu xa mà đơn sơ, giản dị.
    Làm được lược cho con, ông Sáu mong được gặp con, được tận tay chải mái tóc con. Nhưng rồi, một tình cảnh đau thương lại đến với cha con ông Sáu: trong một trận càn lớn của quân Mỹ ngụy, ông Sáu bị một viên đạn bắn vào ngực. “Trong giờ phút cuối cùng,không còn đủ sức trăng trối lại điều gì, hình như chỉ có tình cha con là không thể chết được”, tất cả tàn lực cuối cùng chỉ còn cho ông làm một việc “đưa tay vào túi, móc cây lược” đưa cho người bạn chiến đấu. Đó là điều trăng trối không lời nhưng nó thiêng liêng hơn cả những lời di chúc. Nó là sự ủy thác, là ước nguyện cuối cùng, ước nguyện của tình phụ tử. Và bắt đầu từ giây phút ấy, cây lược của tình phụ tử đã biến người đồng đội của ông Sáu thành một người cha thứ hai của bé Thu.
    Người đọc đã không thể cầm được nước mắt khi nghe tiếng khóc thét của đứa con gọi cha buổi chia tay hồi nào, giờ bỗng không thể cầm lòng khi chứng kiến cái cử chỉ cầm cây lược và ánh mắt nhìn của người cha vào giây phút lâm trung. Từng có bao nhiêu áng văn nói về tình mẹ cực kì xúc động nhưng có lẽ đây là một trang văn rất hiếm hoi mô tả đến tận cùng sâu thẳm trái tim yêu thương của người cha dành cho con. Cũng từ hình ảnh này, nhà văn đã khẳng định: Bom đạn và chiến tranh có thể hủy diệt được sự sống, nhưng tình cha con – tình phụ tử thiêng liêng không gì có thể giết chết được. Đúng như lời của bác Ba sau này nhớ lại: “chỉ có tình cha con là không thể chết được”.
    Có thể nói nhân vật ông Sáu được nhà văn xây dựng bằng những nét nghệ thuật đặc sắc. Nguyễn Quang Sáng đã đặt nhân vật vào cảnh ngộ éo le của đời sống để từ đó ngòi bút miêu tả tâm lí tinh tế đã phát hiện bao cung bậc cảm xúc của tình phụ tử. Ngoài ra, ngôn ngữ kể chuyện vừa truyền cảm, vừa mang đậm chất địa phương Nam Bộ đem đến cho người đọc nhiều xúc động. Đặc biệt,nhà văn đã lựa chọn được một số chi tiết nghệ thuật rất đắt giá như lời dặn mua cho con cây lược của bé Thu,ông Sáu hớn hở khi kiếm được chiếc ngà voi… Tất cả đã góp phần tô đậm vẻ đẹp của người chiến sĩ Cách mạng, của người cha yêu con nồng thắm.
    Hình ảnh nhân vật ông Sáu – người chiến sĩ Cách mạng, người cha trong truyện “Chiếc lược ngà” đã để lại bao thổn thức trong lòng người đọc về tình phụ tử sâu sắc. Chiếc lược ngà và những dòng chữ trên sống lưng lược mãi mãi là kỉ vật, là nhân chứng về nỗi đau, về bi kịch đầy máu và nước mắt của những năm chiến tranh. Ông Sáu là người lính của một thế hệ anh hùng mở đường đi trước đã nếm trải nhiều gian khổ và hi sinh. Ông là hình ảnh tiêu biểu của con người Việt Nam sẵn sàng hi sinh tất cả vì độc lập dân tộc, thống nhất đất nước.

    Trả lời

Viết một bình luận