Ngữ Văn Lớp 10: Cho bài thơ “Đọc Tiểu Thanh Kỉ của Nguyễn Du.”
Tây Hồ cảnh đẹp hóa gò hoang
Thần thức bên song mảnh giấy tàn.
Son phần có thần chốn văn hận,
Văn chương không mệnh đốt còn vương.
Nỗi hòn kim cổ trời khôn hỏi,
Cái án phong lưu khách tự mang.
Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa,
Người đời ai khóc Tổ Như chăng?
Em hãy phân tích bài thơ trên để thấy được sự cảm thông, thương xót và đồng cảm của tác giả Nguyễn Du đối với những con người tài hoa, bạc mệnh trong xã hội phong kiến?

Nếu “Truyện Kiều” là công trình nghệ thuật bậc thầy của Nguyễn Du về nỗi đau, niềm vui của những kiếp người thì thơ chữ Hán lại cho thấy mọt cách trực diện sự khám phá tài tình của ông về cái thế giới sâu thẳm ẩn náu trong đáy tâm hồn nhà thơ. Thi sĩ Xuân Diệu đã viết: “Chính thơ chữ Hán chứa đựng bóng hình, đời sống, nét mặt, mái tóc, dấu chân, tâm tình, suy nghĩ của Nguyễn Du”.
Từ những cảm nhận ấy, mỗi một chúng ta xúc động biết bao khi đọc bài thơ “Độc Tiểu Thanh ký” của Tố Như. Tiểu Thanh là ai? Đó là một cô gái “Nổi danh tài sắc một thì” sống vào đời Minh. Nàng lấy làm lẽ một thương gia họ Phùng. Vợ cả đánh ghen, bắt nàng “biệt cư” trong một ngôi nhà trên núi Cô Sơn cạnh Tây Hồ. Tiểu Thanh có một tập thơ nói lên cuộc đời khát khao hạnh phúc và đầy nước mắt của mình. Tiểu Thanh đau khổ mà chết giữa lúc tuổi đời vừa mười tám xuân xanh. Nàng chết rồi mà tập thơ của nàng vẫn bị vợ cả đem đốt, may còn sót lại một số trang, một số bài và được người đời chép lại gọi là phần dư cào. Thi hào Nguyễn Du trên đường đi sứ qua Tây Hồ, đã đến viếng mộ Tiểu Thanh và đọc tập dư cảo của nàng. Đọc hai câu trong phần đề ta cảm nhận rõ điều đó. Đúng là bài thơ “Độc Tiểu thanh ký” nằm trong Bắc hành tạp lục”.
Từ lúc nàng Tiểu Thanh sống và chết đến lúc Nguyễn Du đi sứ (1813) qua Tây Hồ đã hơn ba trăm năm. Đã có biết bao vật đổi sao dời, biển dâu, dâu biển. Thế mà một vài bài thơ mỏng manh của nàng Tiểu Thanh vẫn làm cho một nhà thơ phương Nam rơi lệ? Mở đầu bài thơ là cả một sự bùi ngùi thương cảm:
“Tây hồ hoa uyển tận thành khư,
Độc điếu song tiền nhất chỉ thư”
“Hoa uyển” và “khư” là hai khái niệm chuyển hóa đối lập. Cảnh xưa đẹp thế, nay đã hoang tàn, phế tích. Chữ “tận” nghĩa là hết, là kiệt cùng. Bao trùm lên cảnh vật là một màu sắc tang thương, đau buồn. Nơi gò hoang ấy chỉ còn lại nấm mồ người bạc mệnh và một mảnh giấy tàn (nhất chỉ thư). Một mình nhà thơ đứng lặng trước cửa sổ đọc “mảnh giấy tàn” điếu người xấu số. Thương cuộc đời bể dâu cũng là thương người, thương người bạc mệnh cũng là thương mình. Xót xa và thương cảm. Đó là sự cảm thông của khách tài tử với giai nhân bạc mệnh, của người đang sống đối với người đã khuất. Sau hơn ba trăm năm nàng Tiểu Thanh mất mà “mảnh giấy tàn” của nàng vẫn còn làm cho Nguyễn Du thổn thức, rơi lệ!
Hai câu thơ trong phần thực như chứa đầy cái uất ức của Tố Như:
“Chỉ phấn hữu thần liên tử hậu
Văn chương vô mệnh lụy phần dư”
“Chỉ phấn” là son phấn tượng trưng cho sắc đẹp của Tiểu Thanh. Văn chương là hiện thân cho tài năng của nàng. Nguyễn Du hỏi đời và hỏi người nhưng mà là để khẳng định: Son phấn có thần, sau khi chết người ta còn xót thương, tiếc nuối. Văn chương còn có số mệnh gì mà người ta còn bận lòng về những bài thơ sót lại sau khi bị đốt! Son phấn và văn chương như những chứng nhân về cuộc đời, về kiếp người oan khổ, ly hận! Vì thế nên son phấn, sắc đẹp thì “có thần”, nó vẫn sống mãi với thời gian và lòng người như Tây Thi, Chiêu Quân, Dương Quý Phi…. cũng như hoa tàn nhưng hương hoa, linh hồn của hoa còn tỏa ngát đau đây, sắc đẹp của giai nhân vẫn sống mãi cùng tên tuổi họ: “Thác là thể phách, còn là tinh anh”. Nỗi hận và xót xa của “son phấn” chính là nỗi đau thương, nỗi hận của nàng Tiểu Thanh: “Tuổi trẻ bị chôn vùi, sắc đẹp bị hãm hại! Văn chương là tài năng, là vẻ đẹp tinh thần của Tiểu Thanh. Văn chương vốn vô mệnh vì nó vô tri, đâu có sống, chết như Người. Ấy vậy mà “mảnh giấy tàn” của người bạc mệnh “vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt”, chống chọi lạc cùng cái ác, vươn lên mà tồn tại, làm nhức nhối người đời, xưa và nay. Nguyễn Du nói về “son phấn” và “văn chương” là để khẳng định ngợi ca tài sắc Tiểu Thanh, của mọi tài tử giai nhân trong cuộc đời bể dâu. Và chính Nguyễn Du, với cảm quan người nghệ sĩ liên tài từ “mảnh giấy tàn” mà nói lên nỗi uất hận ngàn đời của Tiểu Thanh, của những hồng nhan bạc mệnh!
Nghĩ về tài sắc giai nhân và cái đẹp trong cõi nhân gian, Nguyễn Du xót xa suy ngẫm về lẽ đời và tình người trong mọi điều oan trái:
“Cổ kim hận sự thiên nan vấn
Phong vận kỳ oan ngã tự cư”
Sự oán hận xưa và nay khó mà hỏi trời được. Đất dày trời cao “Oan này còn một kêu trời nhưng xa” (“Truyện Kiều”). Nói hỏi trời vì không thể hỏi người. Và khi đã “thiên nan vấn” tức là nỗi bế tắc, oan khổ đày rẫy mọi nơi, mọi chốn. Câu thơ như một tiếng kêu thương rung động cõi đất, trời. Và nỗi oan phong vận kỳ dị kia, ta tự mình lại buộc lấy mình. Phong nhã, phong lưu cùng với đào hoa là vẻ đẹp, là bản sắc của con người. Trong cõi đời ta mấy ai được phong nhã hào hoa? Phong lưu là niềm mơ ước của nhiều người. Sao Nguyễn Du lại gọi là “cái án phong lưu”? Khách phong lưu đáng lẽ được hưởng cái nhàn nhã, thanh thản cuộc đời sao lại phải mang cái án oái ăm vào mình? Đúng là nghịch lý, nghịch cảnh. “Nhất phiến tài tình thiên cổ lụy!” . Đã bao đời nay, “cái án phong lưu ấy” đã đeo đẳng vô số tao nhân mặc khách. Nguyễn Du đâu phải là kẻ “Khéo dư nước mắt khóc người đời xưa” mà là đã nhập thân vào Tiểu Thanh đẻ nói lên những điều day dứt, băn khoăn bao đời nay. Khách tài tử phong lưu đã tri âm với giai nhân bạc mệnh là vậy. Họ là tài tình, là cái đẹp, là khát vọng về cái đẹp, nên họ cảm thương nhau. Nguyễn Du đã cảm thương Duonwg Quý Phi (Dương Phi cố lý), đã “thổn thức” Tiểu Thanh,… với cảm tâm của một khách tài tử. Thương nàng Tiểu Thanh bao nhiêu, ông càng thương mình bấy nhiêu! “Độc Tiểu Thanh ký” là khúc bi ai thương người, cũng là lời tự thương đau xót:
“Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khắp Tố Như”
Nguyễn Du là một “bậc tài tử trong đời. Tiểu Thanh là một khách hòng nhan. Nguyễn Du tìm thấy giữa mình và người con gái ấy có những nét “đồng bệnh tương liên”. Tài tử gian nan, hồng nhan bạc mệnh. Tiểu Thanh chết trong đau khổ, lưu lại với “nhất chỉ thư”, một mảnh giấy tàn, thế mà hơn ba trăm năm sau còn có Nguyễn Du Thương xót cho số phận nàng. Rồi nhà thơ tự khóc mình và cất tiếng nói: Liệu sau khi ông mất, hơn bă trăm năm, trong thiên hạ còn có ai thương ông? Hai câu kết này rất nổi tiếng. Ai đã từng đọc Nguyễn Du đều nhớ. Tôi vẫn rất thích hai câu dịch của Xuân Diệu:
“Ba trăm năm nữa mơ màng
Có ai thiên hạ khóc chàng Tố Như?”
Câu thơ Chứa đầy tâm sự, tâm trạng. “Một tấm lòng vẫn giấu che, bộc lộ trong một phút giây, chệch nhẹ bức mành, mà ma ta trông được cả một thế giới còn chưa nói” (“Con người Nguyễn Du trong thơ chữ Hán” – Xuân Diệu). Câu thơ như tiếng khóc xót thương cho số phận mình. Ở nơi đất khách quê người, trong những tháng ngày đi sứ. Tố Như càng cảm thấy mình bơ vơ, không kẻ tri âm tri kỷ, một mình ôm mối hận của kẻ tài hoa bạc mệnh: “Người đời ai khóc Tố Như chăng?”.
Viết về Nguyễn Du, nhà thơ Tố Hữu có câu “Tiếng thơ ai động đất trời….”. Sau khi Kiều nhảy xuống sông Tiền Đường tự tử. Nguyễn Du cất tiếng nghẹn ngào:
“Thương thay cũng một kiếp người
Hại thay mang lấy sắc tài làm chi?”
Ở trong bài thơ “Độc Tiểu Thanh ký”, ông lại xót xa hỏi: “Son phấn có thần chôn vẫn hận – Văn chương vô mệnh đốt còn vương?”. Bài thơ cho ta thấy niềm thương cảm sâu xa của Tố Như đối với con người là vô cùng mênh mông. Đời người hữu hạn, nỗi đau của con người – con người bạc mệnh là vô hạn. Đọc bài thơ “Độc Tiểu Thanh ký”, chúng ta càng thấy rõ cái tâm của nhà thơ lớn dân tộc, càng vô cùng thấm thía chất nhân văn trong thơ chữ Hán của Tố Như.
Hi vọng với bài viết này do website vanhocvn.com của chúng tôi chia sẻ. Các bạn sẽ có thêm nhiều kiến thức bổ ích giúp kết quả học môn văn học của mình được tốt hơn. Chúng tôi luôn muốn cung cấp cho các bạn những nội dung tốt nhất để có thể phát triển kỹ năng văn học của mình.